Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

ЖУРАВЛИ - ĐÀN SẾU “МАРК БЕРНЕС"

Nhớ lại những ngày đầu khi mới sang học tiếng Nga tại trường đại học tổng hợp Minsk năm 1979, tôi được nghe bài hát này sau đó mấy đứa chúng tôi ngồi nhẩm dịch nội dung. Người thì bảo gọi con chim sếu, người thì bảo chim hạc, nhưng chúng tôi thấy chim hạc có vẻ gì đó nó thiêng liêng hơn thì phải. Vì những người bên đạo phật đã dành cho chim hạc vị trí rất trân trọng trong các đền chùa, tượng trưng cho những người lính gác chùa chiền nơi chốn linh thiêng. Nhưng trong các bản dịch mọi người hay lấy từ sếu có thể vì nghe nó dễ ghép vần hơn.

Mỗi khi đất nước có chiến tranh thì bất kỳ ở nơi nào trên đất nước này mỗi người thanh niên phải đứng lên cầm súng để chiến đấu bảo vệ tổ quốc mình. Có cuộc chiến nào mà không có đau thương mất mát, tổn thất về người và của. Rồi trong số những người lính trẻ xung trận, biết bao người đã phải ngã xuống vì nền độc lập tự do của tổ quốc. Nhưng họ không chết, mà linh hồn của họ đã hóa thân thành những con hạc trắng rồi ngày ngày lặng lẽ bay lượn trên bầu trời cao, như vẫy gọi nhắn nhủ chúng ta hãy biết quý trọng nền độc lập tư do của đất nước mình, đừng bao giờ quên ơn những người đã cống hiến cả đời mình cho tổ quốc để chúng ta có được cuộc sống thanh bình hôm nay.

 ЖУРАВЛИ - ĐÀN SẾU   МАРК БЕРНЕС”

Му. Я. Френкеля - СТ. Р. Гамзатова


Мне кажется порою, что солдаты
С кровавых не пришедшие полей,
Не в землю нашу полегли когда-то,
А превратились в белых журавлей.

Они до сей поры с времен тех дальних
Летят и подают нам голоса.
Не потому ль так часто и печально
Мы замолкаем глядя в небеса?

Летит, летит по небу клин усталый,
Летит в тумане на исходе дня.
И в том строю есть промежуток малый -
Быть может это место для меня.

Настанет день и журавлиной стаей
Я поплыву в такой же сизой мгле.
Из-под небес по-птичьи окликая
Всех вас, кого оставил на земле.

Мне кажется порою, что солдаты
С кровавых не пришедшие полей,
Не в землю нашу полегли когда-то,
А превратились в белых журавлей

ЖУРАВЛИ - ĐÀN SẾU  МАРК БЕРНЕС”
Му. Я. Френкеля - СТ. Р. Гамзатова
Dịch lời Việt: Thanhxuan

Đôi khi, tôi ngợ rằng, những người lính trận
Đã không về từ chiến trường đầy bao xương máu
Chẳng còn nằm dưới lòng đất như thuở nào
Mà biến thành đàn sếu trắng bay trên trời.

Và chúng đã bay từ thuở xa xưa tận đến nay
Và chúng cất lên giọng chúng thiết tha cùng ta
Phải chăng do thế, chúng ta thường buồn diết da sao
Những khi nhìn lên im lặng ngắm trời cao.
Là lá là lá la. Là lá là lá la…..

Bay bay, bay bay khắp trời những đôi cánh mỏi
Bay trong sương mờ và cả khi hoàng hôn tắt
Và giữa đội ngũ kia, một khoảng trống nhỏ hãy còn
Có lẽ là dành chỗ xếp tôi sau này.

Rồi sẽ đến khi tôi cũng có trong đàn sếu kia
Và cũng sẽ bay cùng sếu những khi chiều buông
Từ không trung ấy, giống như giọng sếu trên kia, tôi
sẽ luôn gọi các anh vẫn đang trên cõi đời đây.
Là lá là lá la. Là lá là lá la…..

Đôi khi, tôi ngợ rằng, những người lính trận
Đã không về từ chiến trường đầy bao xương máu
Chẳng còn nằm dưới lòng đất như thuở nào
Mà biến thành đàn sếu trắng bay trên trời.
Là lá là lá la. Là lá là lá la…..






ĐÀN SẾU  
Lời Việt: Lê Tự Minh

Đôi khi suy tư, bao người lính hy sinh nơi chiến trường.
Máu đẫm thân, họ chẳng nằm lại nơi đất ấm.
Trong hư vô mênh mông, bao sinh linh đã hy sinh,
Chợt một ngày thành đàn sếu trắng bay ngang trời.

Ngày tháng vẫn trôi đàn sếu vẫn bay cùng tiếng kêu.
Giọng thống thiết, như gọi Trái Đất trong niềm đau.
Vì sao như thế, chiến tranh là vết thương đau.
Chúng ta lặng im hướng tới phía trời xa.

Hưm hứ hừm hứ hư, Hưm hứ hừm hứ hư.

Bay đi, bay đi trong mênh mông, bay theo mũi tên.
Bay trong sương giăng, chiều buông, nắng dần tắt.
Trên cao kia, còn một chỗ trống giữa đàn.
Phải chăng là dành chỗ trống cho riêng mình.

Ngày tháng vẫn trôi, thành sếu, tôi sẽ bay cùng tiếng kêu.
Gọi xuống thế gian giọng thống thiết nơi Trời cao.
Từ trên mây trắng, tiếng chim gọi xót xa đau thương.
Tiếng gọi người thân còn lại giữa trần gian.


Hưm hứ hừm hứ hư, Hưm hứ hừm hứ hư…