Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

Á TẾ Á CA- (BÀI CA THỨC TỈNH QUỐC DÂN)

Các bạn thân mến, từ nhỏ khi học cấp 2 tôi đã thuộc một bài thơ in trong sách trích giảng văn học lớp 7, nay gọi là sách ngữ văn. Có bài thơ rất tâm đắc chống thực dân Pháp, tác giả là khuyết danh. Tình cờ nay vào mạng tìm được thì có người bảo tác gải là Phan Bội Châu viết năm 1906 gửi từ Nhật Bản về với cái tên “Á tế Á ca”, hay còn có tên khác là: “BÀI CA THỨC TỈNH QUỐC DÂN”. Cũng có người bảo sáng tác của Tăng Bạt Hổ. Bố cháu chỉ nghiên cứu bài hát Nga là chính, giờ nhớ thơ ca Việt Nam một chút đăng lại cho vui, biết đâu bài này cũng được nhiều người thích cũng nên. Thôi thì tác giả là ai, ta không tranh cãi cứ như ngày xưa đề là khuyết danh cũng được, miễn có nội dung hay cho chúng ta đọc để ngẫm sự đời.


Á TẾ Á CA- (BÀI CA THỨC TỈNH QUỐC DÂN)
Tác giả : Phan Bội Châu.

Non sông thẹn với nước nhà,
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu.
Việc dây thép, việc tàu, việc pháo,
Việc luyện binh, việc giáo học trường,
Việc công nghệ, việc nông thương,
Việc khai mỏ khoáng, việc đường hoả xa.

Giữ các việc chẳng qua người nước,
Kẻ chức bồi, người tước culi.
Thông ngôn kí lục chi chi,
Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang.
Các thức thuế các làng thêm mãi,
Hết đinh điền rồi lại trâu bò.

Thuế chó cũi, thuế lợn bò,
Thuế diêm, thuế tửu, thuế đò, thuế xe.
Thuế các chợ, thuế trà, thuế thuốc,
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn.
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền,
Thuế rừng tre gỗ, thuế thuyền bán buôn.

Thuế gò, thuế bãi, thuế cồn,
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn.
Thuế dầu mật, thuế đàn đĩ thoã,
Thuế gạo rau, thuế lúa, thuế bông.
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng,
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kì.

Các thức thuế kể chi cho xiết,
Thuế xia kia mới thật lạ lùng,
Làm cho thập thất cửu không,
Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi.
Lại nghe nỗi Lào Cai, Yên Bái
So muôn người như giải lũ tù.

Ăn cho ngày độ vài xu,
Việc làm gian khổ, công phu lạ lùng.
Độc thay phong chướng nghìn trùng,
Nước sâu quẳng xác, hang cùng chất xương.
Nỗi diệt giống bề lo bề sợ,
Người giống ta biết có còn không?

Nói ra sởn gáy động lòng,
Cha con khóc lóc, vợ chồng thở than.
Cũng có lúc bầm gan tím ruột,
Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.
Cũng xương cũng thịt cũng da
Cùng hòn máu đỏ, giống nhà Lạc Long.

Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Bốn mươi năm nhơ nhuốc lầm than.
Thương ôi! Bách Việt giang san,
Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
Hồn mê mẩn tỉnh chưa, chưa tỉnh?
Anh em ta phải tính nhường sao.