Các bạn thân mến, khi nói đến nhà thơ Alexandr Sergeyevich Puskin, những người yêu thơ của cả thế giới đều biết đến ông qua hàng trăm tác phẩm khác nhau từ những bài thơ, đến những tiểu thuyết
bằng thơ. Trước đây chúng ta đã từng xem phim “Câu chuyện vua Santan” và “Ruslan và Ludmila”,
đó chính là dựa vào các tác phẩm bằng truyện thơ của A.S. Puskin. Trong
trang http://www.thivien.net có đăng tất cả 96 bài thơ của A.S. Puskin đã
được dịch sang tiếng Việt, nhưng chưa có ai dịch cả một tiểu thuyết dài
nào hết. Dù không phải nhà văn, nhà thơ mà chỉ là một người học khối A,
nhưng với lòng kính trọng nhà thơ Alexandr Sergeyevich Puskin, tôi sẽ
cố gắng dịch từng bài trong tác phẩm “ЕВГЕНИЙ
ОНЕГИН” của ông và tôi sẽ đăng lần lượt từng đoạn trên blog này sau khi dịch. CHƯƠNG 1 được chia thành 2 entries: 1-A (1-20); 1-B (21- 60);
Xin giới thiệu với các bạn tiếp Chương 2 của tác phẩm tiểu thuyết bằng thơ của nhà đại văn hào Nga Alexandr Sergeyevich Puskin “Evgheni Onhegin”. Chương 2 bao gồm 40 khổ thơ tất cả, mỗi khổ thơ gồm 14 dòng sẽ được trình bày dưới dạng song ngữ để các bạn dễ theo dõi.
Để xem những phần trước của tác phẩm này, các bạn có thể vào đây:
ЕВГЕНИЙ ОНЕГИН- ГЛАВА ВТОРАЯ- EVGHENI ONHEGIN- CHƯƠNG 2 “АЛЕКСАНДР СЕРГЕЕВИЧ ПУШКИН”
I. Деревня, где скучал
Евгений,
Была прелестный уголок; Там друг невинных наслаждений Благословить бы небо мог. Господский дом уединенный, Горой от ветров огражденный, Стоял над речкою. Вдали Пред ним пестрели и цвели Луга и нивы золотые, Мелькали селы; здесь и там Стада бродили по лугам, И сени расширял густые Огромный, запущенный сад, Приют задумчивых дриад. |
Ngôi làng, nơi Evgheni buồn chán,
Có một con hẻm thật đáng yêu; Nơi ấy có bạn vui chơi thỏa thích Còn có thể cầu trời ban phước lành. Nhà của trưởng ấp ở nơi hẻo lánh, Được ngăn cách gió bởi núi cao, Nhìn trên sông từ phía xa xa Phía trước nhà muôn hoa sặc sỡ Của cánh đồng và ruộng lúa vàng, Thấp thoáng xóm thôn; nơi đây đó Từng đàn bầy lang thang trên đồng cỏ Những bóng đen như càng dày thêm Khu vườn hoang rộng lớn mênh mông, Nơi trú ngụ những cây sồi trầm lặng. |
II. Почтенный замок был
построен,
Как замки строиться должны: Отменно прочен и спокоен Во вкусе умной старины. Везде высокие покои, В гостиной штофные обои, Царей портреты на стенах, И печи в пестрых изразцах. Все это ныне обветшало, Не знаю, право, почему; Да, впрочем, другу моему В том нужды было очень мало, Затем, что он равно зевал Средь модных и старинных зал. |
Các lâu đài đáng kính có ở đây,
Như các lâu đài cần phải được xây: Bền vững và yên tĩnh tuyệt vời Mang dáng dấp cổ điển đầy tinh tế. Khắp mọi nơi những căn phòng tao nhã Trong phòng khách dán bằng vải lụa, Chân dung các vua được treo trên tường, Và bếp lò xây gạch men sặc sỡ. Tất cả những thứ đó giờ đã lỗi thời, Tôi không hiểu thực sự, vì sao; Và tuy nhiên cả người bạn của tôi Các nhu cầu nơi ấy thật ít ỏi, Và sau đó ông nhìn lơ láo Giữa những phòng hợp mốt và cổ xưa. |
III. Он в том покое поселился,
Где деревенский старожил Лет сорок с ключницей бранился, В окно смотрел и мух давил. Все было просто: пол дубовый, Два шкафа, стол, диван пуховый, Нигде ни пятнышка чернил. Онегин шкафы отворил; В одном нашел тетрадь расхода, В другом наливок целый строй, Кувшины с яблочной водой И календарь осьмого года: Старик, имея много дел, В иные книги не глядел. |
Ông sống nơi ấy thật yên bình,
Nơi có một người dân thôn quê Bốn mươi năm cãi nhau với quản gia Nhìn qua cửa sổ và đập ruồi Tất cả mọi thứ đó là: sàn bằng gỗ sồi, Hai tủ, bàn và ghế đi văng đệm lông, Chẳng nơi nào có vết mực rơi. Onhegin vừa mở cửa tủ ra; Ở chỗ này tìm thấy sổ chi tiêu, Ở chỗ kia thấy cả đống rượu mùi, Và cả những bình đầy nước táo Và cuốn lịch của năm thứ tám: Một ông già có rất nhiều công việc, Những cuốn khác ngài chẳng hề xem. |
IV. Один среди своих владений,
Чтоб только время проводить, Сперва задумал наш Евгений Порядок новый учредить. В своей глуши мудрец пустынный, Ярем он барщины старинной Оброком легким заменил; И раб судьбу благословил. Зато в углу своем надулся, Увидя в этом страшный вред, Его расчетливый сосед; Другой лукаво улыбнулся, И в голос все решили так, Что он опаснейший чудак. |
Một trong số tài sản của mình,
Để luôn tiến hành trong suốt thời gian, Evgheni của tôi nghĩ đến trước tiên Cần đặt ra một trật tự mới. Nhà hiền triết đìu hiu, nơi hẻo lánh, Ách thống trị chế độ lao dịch cũ Thay thế bằng cách thu tiền nhẹ nhàng; Và chúc phúc số phận cho đầy tớ. Nhưng trong phần của mình lại đầy lên, Người hàng xóm chi li của ông, Thấy nơi đó tổn thất khủng khiếp; Mặt khác, lại mỉm cười rảo quyệt, Và giọng nói luôn quyết định như vậy, Vì ông là người gàn giở nguy hiểm nhất. |
V. Сначала все к нему
езжали;
Но так как с заднего крыльца Обыкновенно подавали Ему донского жеребца, Лишь только вдоль большой дороги Заслышат их домашни дроги, - Поступком оскорбясь таким, Все дружбу прекратили с ним. «Сосед наш неуч; сумасбродит; Он фармазон; он пьет одно Стаканом красное вино; Он дамам к ручке не подходит; Все да да нет; не скажет да-с Иль нет-с». Таков был общий глас. |
Lúc đầu tất cả đến với
anh ta;
Nhưng vì từ bậc cửa phía sau Mọi người thường đem đến cho ông Một chú ngựa giống sông Đông, Chỉ khi chạy dọc theo đại lộ Mới nghe thấy cỗ xe của gia đình họ,- Bị xúc phạm bởi hành động như thế, Tất cả chấm dứt tình bạn với anh ta. “Hàng xóm của chúng tôi thất học, gàn giở; Kẻ vô tư, uống một thứ rượu Chỉ một ly vang đỏ mà thôi; Ông ta chẳng phù hợp các quý bà; Luôn mồm nói nhưng không dứt khoát” Chẳng hề tìm được tiếng nói chung. |
VI. В свою деревню в ту же
пору
Помещик новый прискакал И столь же строгому разбору В соседстве повод подавал: По имени Владимир Ленской, С душою прямо геттингенской, Красавец, в полном цвете лет, Поклонник Канта и поэт. Он из Германии туманной Привез учености плоды: Вольнолюбивые мечты, Дух пылкий и довольно странный, Всегда восторженную речь И кудри черные до плеч. |
Ở trong làng cũng vào thời đó,
Địa chủ mới cũng phi ngựa tới Cũng vì chuyện phân tích nghiêm ngặt Đưa ra lý do ngay nhà hàng xóm: Với tên gọi Vladimir Lensky Với tính thẳng thắn Gottingen, Đẹp trai với lứa tuổi đầy sắc thắm, Là nhà thơ, người ngưỡng mộ Kant. Ông đến từ nước Đức ảm đạm Mang tới những thành quả uyên bác: Những ước mơ yêu quý tự do, Tinh thần đam mê và thật lạ lùng, Luôn luôn có giọng nói hào hùng Và mái tóc quăn đen tới ngang vai. |
VII. От хладного разврата
света
Еще увянуть не успев, Его душа была согрета Приветом друга, лаской дев; Он сердцем милый был невежда, Его лелеяла надежда, И мира новый блеск и шум Еще пленяли юный ум. Он забавлял мечтою сладкой Сомненья сердца своего; Цель жизни нашей для него Была заманчивой загадкой, Над ней он голову ломал И чудеса подозревал. |
Từ sự sa đọa lạnh lùng của thế giới
Và đang còn chưa kịp héo mòn Tâm hồn của ông đã được sưởi ấm Bằng lời chào bạn bè, âu yếm của thiếu nữ; Ông là kẻ vô học dễ thương bởi trái tim, Niềm hy vọng của ông luôn ấp ủ Anh sáng mới và sự ồn ào của thế giới Đang còn quyến rũ tâm trí trẻ trung. Ông đùa vui bằng ước mơ ngọt ngào Những nghi hoặc của trái tim mình; Mục đích cuộc sống của chúng ta cho anh Là điều bí ẩn đầy hấp dẫn, Vì điều ấy ông sẵn sàng bẻ cổ Và hoài nghi cả phép lạ thần thông. |
VIII. Он верил, что душа родная
Соединиться с ним должна, Что, безотрадно изнывая, Его вседневно ждет она; Он верил, что друзья готовы За честь его приять оковы И что не дрогнет их рука Разбить сосуд клеветника; Что есть избранные судьбами, Людей священные друзья; Что их бессмертная семья Неотразимыми лучами Когда-нибудь нас озарит И мир блаженством одарит. |
Anh ấy tin rằng tấm lòng ruột thịt
Cần phải kết nối với anh ta, Những gì đang giày vò buồn bã Từng ngày đang chờ đợi anh ta; Anh ấy tin rằng, bạn bè đã sẵn sàng Vì danh dự của anh tiếp nhận gông xiềng Bàn tay họ chẳng hề run sợ Đập vỡ bình của kẻ vu oan; Có những người được chọn bởi số phận, Bạn bè thiêng liêng của loài người; Gia đình của họ là bất tử Bởi những tia sáng chói tuyệt trần Rồi có ngày sẽ soi chiếu chúng ta Và ban niềm hạnh phúc cho thế giới. |
IX. Негодованье, сожаленье,
Ко благу чистая любовь И славы сладкое мученье В нем рано волновали кровь. Он с лирой странствовал на свете; Под небом Шиллера и Гете Их поэтическим огнем Душа воспламенилась в нем; И муз возвышенных искусства, Счастливец, он не постыдил: Он в песнях гордо сохранил Всегда возвышенные чувства, Порывы девственной мечты И прелесть важной простоты. |
Không tức giận, khồng hề nuối tiếc,
Vì hạnh phúc tình yêu trong trắng Và đau khổ ngọt ngào của vinh quang Làm máu trong anh sớm dâng trào. Anh cùng đàn đi chu du thế giới; Dưới bầu trời của Schiller và Goethe Và ngọn lửa đầy thơ ca của họ Tâm hồn anh đã nhen nhúm nơi đây; Và nghệ thuật của nàng thơ cao siêu Người hạnh phúc, anh không hổ thẹn: Anh tự hào giữ trong những bài ca Mãi mãi những cảm xúc tuyệt vời Những cơn khát vọng về trinh nữ Và vẻ đẹp giản đơn thiết yếu. |
Friedrich von Schiller
(1759- 1805) nhà thơ Đức
Wolfgang von Goethe (1749-1832) nhà thơ Đức. |
|
X. Он пел любовь, любви
послушный,
И песнь его была ясна, Как мысли девы простодушной, Как сон младенца, как луна В пустынях неба безмятежных, Богиня тайн и вздохов нежных. Он пел разлуку и печаль, И нечто, и туманну даль, И романтические розы; Он пел те дальные страны, Где долго в лоно тишины Лились его живые слезы; Он пел поблеклый жизни цвет Без малого в осьмнадцать лет. |
Anh vâng theo tình yêu, ca ngợi tình yêu,
Và bài hát của anh rất rõ ràng, Như ý nghĩ của thiếu nữ hồn nhiên, Như giấc mơ trẻ thơ, như mặt trăng Trong sa mạc thanh bình của bầu trời, Nữ thần bí ẩn của những hơi thở dịu êm. Anh hát về chia ly và nỗi buồn đau, Cả những gì đó phía xa xa mờ ảo, Và những bông hoa hồng lãng mạn; Anh hát về những xứ sở xa xôi, Đã từ lâu nằm trong lòng im lặng Những giọt lệ sống của anh tuôn chảy; Anh hát về màu tàn héo của cuộc đời Mười tám tuổi đời, chẳng hề có tuổi thơ. |
XI. В пустыне, где один
Евгений
Мог оценить его дары, Господ соседственных селений Ему не нравились пиры; Бежал он их беседы шумной. Их разговор благоразумный О сенокосе, о вине, О псарне, о своей родне, Конечно, не блистал ни чувством, Ни поэтическим огнем, Ни остротою, ни умом, Ни общежития искусством; Но разговор их милых жен Гораздо меньше был умен. |
Ở sa mạc chỉ một mình Evgheni
Có thể đánh giá tài năng của mình, Các ông chủ của những xóm láng giềng Ông không thích những đám yến tiệc; Ông tới buổi tọa đàm ồn ào của họ Và những cuộc trò truyện chí lý Bàn về cắt cỏ và rượu vang, Về chuồng chó và người thân của họ, Không hề thấy thể hiện chút tình cảm, Không chút lửa nhen nhóm cho thơ, Chẳng hề tinh tế hay uyên bác, Chẳng hề có nghệ thuật sống chung; Là chuyện của những người vợ đẹp xinh Nhưng có điều thật kém thông minh. |
XII. Богат, хорош собою,
Ленский
Везде был принят как жених; Таков обычай деревенский; Все дочек прочили своих За полурусского соседа; Взойдет ли он, тотчас беседа Заводит слово стороной О скуке жизни холостой; Зовут соседа к самовару, А Дуня разливает чай; Ей шепчут: «Дуня, примечай!» Потом приносят и гитару: И запищит она (бог мой!): Приди в чертог ко мне златой!.. |
Lenski là người giàu có, đẹp trai
Khắp nơi được nhìn nhận như chú rể; Phong tục này thường ở thôn quê; Tất cả đều ước tính con gái mình Là láng giềng một nửa người Nga; Giờ này thảo luận, ông có vào hay không Mà lại nói một lời lảng tránh Về nỗi buồn của cuộc đời độc thân; Gọi hàng xóm ra bình nấu nước, Còn Dunhya lại đang rót trà; Thầm bảo nàng:“Dunhya, hãy chú ý!” Sau lại mang đến cây ghita: Và nàng viết (Trời của tôi ơi!) Hãy là vàng, đến với em nơi cung điện!... |
XIII. Но Ленский, не имев,
конечно,
Охоты узы брака несть, С Онегиным желал сердечно Знакомство покороче свесть. Они сошлись. Волна и камень, Стихи и проза, лед и пламень Не столь различны меж собой. Сперва взаимной разнотой Они друг другу были скучны; Потом понравились; потом Съезжались каждый день верхом И скоро стали неразлучны. Так люди (первый каюсь я) От делать нечего друзья. |
Nhưng Lenski tất nhiên
không có
Lòng ham muốn kết thúc mối nhân duyên, Với Onhegin ông thành tâm chúc mừng Để rút ngắn thêm sự quen biết. Họ đến với nhau như đá và sóng biển. Thơ ca và văn xuôi, đá băng và lửa Không đến nỗi khác biệt với nhau. Lúc đầu bởi sự khác biệt qua lại Họ cảm thấy buồn chán với nhau; Sau rồi họ cũng thấy mến hơn Và hàng ngày cùng nhau cưỡi ngựa Rồi trở thành gắn bó keo sơn. Như vậy, (người đầu tiên ân hận là tôi) Chẳng có gì cần làm đâu các bạn. |
XIV. Но дружбы нет и той меж
нами.
Все предрассудки истребя, Мы почитаем всех нулями, А единицами — себя. Мы все глядим в Наполеоны; Двуногих тварей миллионы Для нас орудие одно; Нам чувство дико и смешно. Сноснее многих был Евгений; Хоть он людей, конечно, знал И вообще их презирал, - Но (правил нет без исключений) Иных он очень отличал И вчуже чувство уважал. |
Chẳng
có tình bạn nào giữa chúng ta.
Để loại bỏ tất cả mọi định kiến, Chúng ta tôn kính tất cả từ số không, Còn bản thân mình – chỉ là số một. Chúng ta nhìn tất cả vào Napoleon; Hàng triệu sinh vật có hai chân Với chúng ta khẩu pháo chỉ có một; Chúng tôi thấy ngây ngô và nực cười. Khá hơn nhiều người là Evgheni; Dù tất nhiên ông, có biết mọi người Nhưng nói chung đều khinh thường họ,- (Chẳng có quy tắc nào không có ngoại lệ) Ông rất quan tâm đến người khác Và quý trọng tình cảm người xa lạ. |
XV. Он слушал Ленского с
улыбкой.
Поэта пылкий разговор, И ум, еще в сужденьях зыбкой, И вечно вдохновенный взор, - Онегину все было ново; Он охладительное слово В устах старался удержать И думал: глупо мне мешать Его минутному блаженству; И без меня пора придет; Пускай покамест он живет Да верит мира совершенству; Простим горячке юных лет И юный жар и юный бред. |
Ông mỉm cười lắng nghe
Lenski.
Cuộc trò truyện sôi nổi của nhà thơ, Nhưng tâm trí còn đang rung động, Như cái nhìn cảm hứng muôn đời,- Với Onhegin tất cả đều mới lạ; Tất cả những lời lẽ mát mẻ Ông cố giữ ở trên đôi môi Và nghĩ: tôi quấy rầy thật là ngu xuẩn Niềm khoái lạc chốc lát của anh ta; Khi vắng tôi thời khắc sẽ tới; Hãy để ông tạm thời được sống Tin tưởng sự hoàn thiện của thế gian; Tha thứ sự nông nổi thời tuổi trẻ Lòng nhiệt huyết và hồ đồ lúc trẻ trung. |
XVI. Меж ими все рождало споры
И к размышлению влекло: Племен минувших договоры, Плоды наук, добро и зло, И предрассудки вековые, И гроба тайны роковые, Судьба и жизнь в свою чреду, Все подвергалось их суду. Поэт в жару своих суждений Читал, забывшись, между тем Отрывки северных поэм, И снисходительный Евгений, Хоть их не много понимал, Прилежно юноше внимал. |
Giữa
chúng nảy sinh những bất hòa
Và bị cuốn hút vào suy tưởng: Bàn luận về những nòi giống vừa qua, Thành quả khoa học, thiện và ác, Và những thành kiến đã bao đời, Những bí quyết tai hại giữ đến chết, Số phận và cuộc đời tư cứ luân phiên, Tất cả họ được tòa phán quyết. Nhà thơ hào hứng với xét đoán của mình Đọc và lãng quên ngay lúc đó Những trích đoạn từ trường ca miền Bắc, Và rồi Evgheni độ lượng, Mặc dù không hiểu họ được nhiều, Vẫn chăm chú nghe theo chàng trai trẻ. |
XVII. Но чаще занимали страсти
Умы пустынников моих. Ушед от их мятежной власти, Онегин говорил об них С невольным вздохом сожаленья: Блажен, кто ведал их волненья И наконец от них отстал; Блаженней тот, кто их не знал, Кто охлаждал любовь - разлукой, Вражду - злословием; порой Зевал с друзьями и с женой, Ревнивой не тревожась мукой, И дедов верный капитал Коварной двойке не вверял. |
Nhưng
đam mê thường xuyên chiếm giữ
Những trí tuệ trong hoang mạc của tôi. Đã mất bởi quyền thế mãnh liệt của họ Mà Onhegin đã từng nhắc đến Cùng tiếng thở dài vô tình luyến tiếc: Thật may cho ai đã thấy niềm xao xuyến Và cuối cùng cũng bị tụt lại phía sau; May mắn hơn là những người không biết, Ai làm nguội lạnh tình yêu bằng- chia ly. Sự oán thù- bằng châm chọc; đôi khi Ngáp trước cả vợ mình và bè bạn, Chẳng lo âu bởi nỗi khổ ghen tuông, Và tiền bạc cầm chắc của cha ông Chẳng giao phó cho hai người gian trá. |
TP. Hồ Chí Minh 22.12.2011
Minh Nguyệt dịch. |
|
XVIII.
Когда
прибегнем мы под знамя
Благоразумной тишины, Когда страстей угаснет пламя, И нам становятся смешны Их своевольство иль порывы И запоздалые отзывы, Смиренные не без труда, Мы любим слушать иногда Страстей чужих язык мятежный, И нам он сердце шевелит. Так точно старый инвалид Охотно клонит слух прилежный Рассказам юных усачей, Забытый в хижине своей. |
Khi
chúng ta chạy đến dưới sắc cờ
Của một sự lặng lẽ thông minh, Khi ngọn lửa đam mê vụt tắt Càng trở nên nực cười với chúng ta Là cái tính tự tiện của họ Hoặc những lần đối đáp muộn màng, Khiêm tốn mà không phải dễ dàng, Đôi khi chúng tôi cũng thích nghe Lời nói sôi nổi, đam mê của người khác, Nó làm cho tim chúng ta rung động. Đúng như người tàn phế già nua Sẵn lòng nghe một cách say mê Truyện về những người trẻ tai dài Đã bỏ quên trong túp lều của mình. |
XIX. Зато и пламенная младость
Не может ничего скрывать. Вражду, любовь, печаль и радость Она готова разболтать. В любви считаясь инвалидом, Онегин слушал с важным видом, Как, сердца исповедь любя, Поэт высказывал себя; Свою доверчивую совесть Он простодушно обнажал. Евгений без труда узнал Его любви младую повесть, Обильный чувствами рассказ, Давно не новыми для нас. |
Bởi
vì thời tuổi trẻ đang cuồng nhiệt
Chẳng thể nào che dấu điều gì. Hận thù, tình yêu, nỗi buồn và niềm vui Thì tuổi trẻ đều sẵn sàng tâm sự. Trong tình yêu có coi trọng phế nhân Onhegin lắng nghe thật chăm chú, Như lời thú tội của con tim đang yêu, Nhà thơ đã thể hiện chính mình; Rôi ông đã chất phác bộc lộ Cả lương tâm tin tưởng của mình. Evgheni chẳng khó khăn biết được Tiểu thuyết mới về tình yêu của anh, Là câu chuyện tràn đầy tình cảm, Từ lâu chẳng còn mới với chúng ta. |
XX. Ах, он любил, как в наши
лета
Уже не любят; как одна Безумная душа поэта Еще любить осуждена: Всегда, везде одно мечтанье, Одно привычное желанье, Одна привычная печаль. Ни охлаждающая даль, Ни долгие лета разлуки, Ни музам данные часы, Ни чужеземные красы, Ни шум веселий, ни науки Души не изменили в нем, Согретой девственным огнем. |
Anh
ấy yêu, khi mùa hè của chúng tôi
Đã không ai còn yêu; như là một Tâm hồn điên dại của nhà thơ Đang còn bị kết tội vì yêu: Khắp nơi, luôn luôn một ước mơ, Một mong muốn thông thường Một nỗi buồn quen thuộc Không có phương trời xa mát mẻ, Không có những hè dài chia ly Chẳng có những giờ cho nàng thơ Chẳng hề có sắc đẹp từ ngoại quốc, Chẳng có tiếng nhộn nhịp, hay tri thức Không thay đổi được tâm hồn anh, Đã sưởi ấm bởi ngọn lửa trinh nữ. |
XXI. Чуть отрок, Ольгою
плененный,
Сердечных мук еще не знав, Он был свидетель умиленный Ее младенческих забав; В тени хранительной дубравы Он разделял ее забавы, И детям прочили венцы Друзья-соседы, их отцы. В глуши, под сению смиренной, Невинной прелести полна, В глазах родителей, она Цвела, как ландыш потаенный, Незнаемый в траве глухой Ни мотыльками, ни пчелой. |
Chàng
thanh niên bị Olga quyến rũ,
Còn chưa biết đau khổ của con tim, Chàng là một nhân chứng đầy xúc động Của những trò vui hồn nhiên của cô; Trong bóng mát của rừng sồi che chở Anh chia sẻ những trò vui với cô, Bạn bè- hàng xóm, và cha của họ Trao những vòng hoa cho trẻ em Nơi xa vắng, ở phòng khách khiêm nhường, Chứa chất đầy sắc đẹp hồn nhiên Trong ánh mắt của cả cha mẹ Đang nở như linh lan âm thầm, Chưa hề thấy trong đám cỏ lặng câm Dù cho bướm hay ong cũng vậy. |
XXII. Она поэту подарила
Младых восторгов первый сон, И мысль об ней одушевила Его цевницы первый стон. Простите, игры золотые! Он рощи полюбил густые, Уединенье, тишину, И ночь, и звезды, и луну, Луну, небесную лампаду, Которой посвящали мы Прогулки средь вечерней тьмы, И слезы, тайных мук отраду... Но нынче видим только в ней Замену тусклых фонарей. |
Nàng đã trao tặng cho
nhà thơ
Giấc mơ đầu hân hoan của tuổi trẻ, Và suy nghĩ về nàng đã khích lệ Âm thanh đầu trong tiếng sáo của anh. Hãy tha lỗi, những trò chơi vàng! Anh yêu thích những cánh rừng rậm, Thật riêng biệt lẻ loi, tĩnh mịch, Và đêm tối, những ngôi sao và trăng, Mặt trăng, đèn chong bầu trời, Mà chúng tôi đã từng dâng hiến Những cuộc dạo chơi giữa bóng đêm, Lệ rơi, niềm an ủi của đau khổ âm thầm… Nhưng giờ đây chỉ thấy ở nơi ấy Sự đổi thay của những ánh đèn mờ. |
XXIII. Всегда скромна, всегда
послушна,
Всегда как утро весела, Как жизнь поэта простодушна, Как поцелуй любви мила; Глаза, как небо, голубые, Улыбка, локоны льняные, Движенья, голос, легкий стан, Всё в Ольге... но любой роман Возьмите и найдете верно Ее портрет: он очень мил, Я прежде сам его любил, Но надоел он мне безмерно. Позвольте мне, читатель мой, Заняться старшею сестрой. |
Luôn luôn khiêm tốn và
vâng lời,
Luôn như sớm ban mai vui vẻ, Như cuộc đời hồn nhiên của nhà thơ, Như nụ hôn của tình yêu dịu ngọt; Đôi mắt như bầu trời xanh thẳm, Nụ cười, mái tóc xoăn bồng bềnh, Mọi cử chỉ, lời nói, thân hình thanh tú, Tất cả trong Olga…nhưng hãy lấy Bất kỳ tiểu thuyết và tìm trung thực Chân dung của cô- rất dễ thương, Như ngày trước tôi cũng đã từng yêu, Nhưng giờ thấy vô cùng chán ngấy Hãy cho phép nhé, độc giả của tôi, Quan tâm đến người chị thì hơn. |
XXIV. Ее сестра звалась
Татьяна...
Впервые именем таким Страницы нежные романа Мы своевольно освятим. И что ж? оно приятно, звучно; Но с ним, я знаю, неразлучно Воспоминанье старины Иль девичьей! Мы все должны Признаться: вкусу очень мало У нас и в наших именах (Не говорим уж о стихах); Нам просвещенье не пристало, И нам досталось от него Жеманство, - больше ничего. |
Chị
của cô tên là Tatyana…
Lần đầu tiên với cái tên như thế Chúng ta sẽ sẵn lòng tôn kính Những trang dịu dàng của tiểu thuyết. Và có điều chi? Thú vị và ngân vang; Tôi biết, với anh ta nó không thể tách rời Những ký ức từ thời đã qua Hay là các thiếu nữ! Chúng ta cần phải Thú nhận: có rất ít kiểu cách Trong mỗi cái tên của chúng ta (Không hề nói đến những vần thơ); Nền giáo dục không thấm vào chúng ta, Và chúng ta nhận được từ đó Sự điệu bộ chẳng có gì hơn. |
XXV. Итак, она звалась
Татьяной.
Ни красотой сестры своей, Ни свежестью ее румяной Не привлекла б она очей. Дика, печальна, молчалива, Как лань лесная боязлива, Она в семье своей родной Казалась девочкой чужой. Она ласкаться не умела К отцу, ни к матери своей; Дитя сама, в толпе детей Играть и прыгать не хотела И часто целый день одна Сидела молча у окна. |
Và
cô được gọi là Tatyana.
Không một chút nhan sắc của chị mình, Không một chút hồng hào tươi mát Cô chẳng hề hấp dẫn những con mắt. Hoang dại, buồn bã, trầm lặng, Như một con nai rừng nhút nhát, Cô ở nhà thân yêu của chính mình Ngỡ như một thiếu nữ xa lạ. Cô chẳng biết nâng niu trìu mến Với cha hay với mẹ của mình; Cô như đứa bé trong đám trẻ Chơi đùa, nhảy nhót cũng không ham Và thường thì cả ngày một mình Ngồi trầm ngâm ở bên cửa sổ. |
XXVI. Задумчивость, ее подруга
От самых колыбельных дней, Теченье сельского досуга Мечтами украшала ей. Ее изнеженные пальцы Не знали игл; склонясь на пяльцы, Узором шелковым она Не оживляла полотна. Охоты властвовать примета, С послушной куклою дитя Приготовляется шутя К приличию - закону света, И важно повторяет ей Уроки маменьки своей. |
Sự
trầm tư chính là bạn của cô
Kể từ những ngày còn trong nôi, Các trào lưu giải trí ở nông thôn Làm đẹp cho cô bằng những ước mơ. Những bàn tay mềm yếu của cô Không biết cầm kim; lượn khung thêu, Còn hình thêu tơ lụa của cô Trên tấm tranh chẳng hề sinh động. Dấu hiệu lòng ham mê cai trị Đứa trẻ như búp bê biết vâng lời Được chuẩn bị như một trò đùa Cho lịch sự với quy luật thế giới, Nhưng cần phải nhắc lại cho cô ấy Những bài học từ mẹ của mình. |
XXVII. Но куклы даже в эти годы
Татьяна в руки не брала; Про вести города, про моды Беседы с нею не вела. И были детские проказы Ей чужды: страшные рассказы Зимою в темноте ночей Пленяли больше сердце ей. Когда же няня собирала Для Ольги на широкий луг Всех маленьких ее подруг, Она в горелки не играла, Ей скучен был и звонкий смех, И шум их ветреных утех. |
Nhưng
búp bê vào những năm đó
Tatyana chẳng cầm trên tay; Những tin về thành phố và thời trang Cuộc trò chuyện với cô thường không có. Những trò tinh nghịch của trẻ em Cô lẩn tránh - những câu chuyện sợ hãi Trong bóng tối của những đêm đông Trái tim cô càng thêm say đắm. Khi vú nuôi còn đang sửa soạn Cho Olga ra bãi cỏ rộng Tất cả bạn gái nhỏ của mình, Cô không đùa nghịch ở trong bếp Lòng buồn rầu vì tiếng cười vang, Và tiếng sào sạc bỗng nhiên vụt tắt. |
TP. Hồ Chí Minh 21.12.2011
Minh Nguyệt dịch. |
|
XXVIII. Она любила на балконе
Предупреждать зари восход, Когда на бледном небосклоне Звезд исчезает хоровод, И тихо край земли светлеет, И, вестник утра, ветер веет, И всходит постепенно день. Зимой, когда ночная тень Полмиром доле обладает, И доле в праздной тишине, При отуманенной луне, Восток ленивый почивает, В привычный час пробуждена Вставала при свечах она. |
Cô rất thích đứng trên ban
công
Đón mặt trời mọc lúc rạng đông, Khi ở dưới chân trời ảm đạm Các vì sao cứ lần lượt tắt dần, Mảnh đất thanh bình đang tỏa sáng Và cơn gió thổi báo tin buổi sớm, Rồi một ngày đang từ từ hiện ra. Mùa đông đến là lúc màn đêm Bao trùm hết một nửa thế gian, Và một nửa trong âm thầm buồn tẻ Dưới ánh trăng mờ sau màn sương Phương đông uể oải đang nằm ngủ Được đánh thức vào giờ quen thuộc Cô tỉnh dậy bên những ngọn nến. |
XXIX. Ей рано нравились романы;
Они ей заменяли всё; Она влюблялася в обманы И Ричардсона и Руссо. Отец ее был добрый малый, В прошедшем веке запоздалый; Но в книгах не видал вреда; Он, не читая никогда, Их почитал пустой игрушкой И не заботился о том, Какой у дочки тайный том Дремал до утра под подушкой. Жена ж его была сама От Ричардсона без ума. |
Cô đã sớm yêu thích tiểu thuyết;
Chúng làm cô thay đổi tất cả; Cô yêu thích những chuyện dối lừa Của Richardson với Rousseau. Cha của cô là một người tốt bụng, Đã lạc lại từ thế kỷ trước; Nhưng sách không thấy điều độc hại; Nên ông không hề đọc bao giờ, Xem chúng như trò chơi trống rỗng Chẳng khi nào để ý được rằng Cô con gái có tập sách bí ẩn Mơ màng dưới gối cho đến sáng. Còn người vợ ông cũng như thế, Yêu thơ Richardson đến phát điên. |
XXX. Она любила Ричардсона
Не потому, чтобы прочла, Не потому, чтоб Грандисона Она Ловласу предпочла; Но в старину княжна Алина, Ее московская кузина, Твердила часто ей об них. В то время был еще жених Ее супруг, но по неволе; Она вздыхала по другом, Который сердцем и умом Ей нравился гораздо боле: Сей Грандисон был славный франт, Игрок и гвардии сержант. |
Cô yêu mến Richardson
Không phải vì để mà đọc xong Không phải vì Grandison Cô kính trọng Lovlasu; Nhưng thuở xưa tiểu thư Alina, Là em họ cô, người Matxcơva, Luôn nhắc lại với cô điều ấy. Vào lúc đó vẫn còn có chú rể Là chồng bà nhưng bị giam cầm; Cô đành thở dài theo người bạn Đã làm cô yêu thích hơn nhiều Bằng cả trái tim và khối óc: Grandison là công tử bảnh bao Là đấu thủ và trung sĩ vệ binh. |
XXXI.Как он, она была одета
Всегда по моде и к лицу; Но, не спросясь ее совета, Девицу повезли к венцу. И, чтоб ее рассеять горе, Разумный муж уехал вскоре В свою деревню, где она, Бог знает кем окружена, Рвалась и плакала сначала, С супругом чуть не развелась; Потом хозяйством занялась, Привыкла и довольна стала. Привычка свыше нам дана: Замена счастию она. |
Giống như chàng, nàng cũng ăn diện
Luôn theo mod, hợp theo nét mặt; Nhưng chẳng hỏi lời khuyên của cô, Mà đưa đi đăng ký kết hôn. Để xua tan nỗi khổ của cô Người chồng khôn khéo ra đi ngay Trở về làng mình, nơi mà cô sống, Trời mới biết ai đang vây quanh, Cô lao ra và khóc ngay tức tưởi, Với người chồng, xuýt nữa cô ly dị. Sau đó cô làm việc nội trợ, Đã quen rồi và thấy hài lòng. Thói quen cao hơn đã trao chúng ta: Cô đã thay thế niềm hạnh phúc. |
XXXII. Привычка усладила горе,
Не отразимое ничем; Открытие большое вскоре Ее утешило совсем: Она меж делом и досугом Открыла тайну, как супругом Самодержавно управлять, И все тогда пошло на стать. Она езжала по работам, Солила на зиму грибы, Вела расходы, брила лбы, Ходила в баню по субботам, Служанок била осердясь - Все это мужа не спросясь. |
Thói quen làm giảm nhẹ nỗi đau,
Bởi chẳng thể hiện một điều gì; Mở màn rộng lớn ngay sau đó An ủi tất cả nỗi lòng cô: Giữa công việc v |