Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

NÚI ĐÔI ( VŨ CAO )


Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng.
Xuân dục, Đoài đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới, bữa anh sang

Lối ta đi giữa hai sườn núi
Hai ngọn nên làng gọi núi đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi.

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Xóm Chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỡ hẹn
Ai ngờ từ đó bặt tin nhau.

Anh vào bộ đội lên Đông Bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi:
Ai người Xuân Dục - Núi đôi chăng?

Anh biết quê ta giặc chiếm rồi
Muôn ngàn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vành đai giặc
Sương trắng người đi lại nhớ người.

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm làng thăm Núi đôi.

Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành chết thủy trung.

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông bờ cỏ con đường quen
Núi lại bỗng dưng nhòa bóng khói
Núi vẫn còn đôi, anh mất em.

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh, nửa mái nhà che tạm
Sương nắng khuây dần chuyệt xót đau.

Anh nghe có tiếng người qua chợ
Ta gắng màu sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Đời ta rồi đẹp biết bao nhiêu

Nhưng núi còn đôi, anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó anh còn đây
ở đâu cô gái làng Xuân dục
Đã trọn niềm tin giữ đất này.

Ai biết tên em thành liệt sỹ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Còn em là Hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.

******
Bài thơ này trong thời kỳ chiến tranh không được phổ biến rộng rãi, chỉ sau ngày thống nhất đất nước mới được phát thanh. Sắp tới ngày thương binh liệt sĩ, là những người lính ai không khỏi chạnh lòng khi đọc bài thơ này.