Các bạn thân mến, xin giới thiệu với các bạn
một bài báo viết về khí phách kiên cường của một phụ nữ Việt nam đấu tranh với
bệnh tật để vươn lên. Bài viết được đăng trên báo “THANH NIÊN SINH VIÊN VIỆT
NAM TẠI HOA KỲ” ngày 26/07/2013.
Bài tham dự
cuộc thi Hành trình nước Mỹ
Tác giả:
Nguyễn Thị Minh Phương,
Nghiên cứu
sinh ngành Quản trị Giáo dục Đại học, Đại học Massachusetts, Boston. Chị cũng
là giảng viên bộ môn Tiếng Việt, Khoa Ngôn ngữ Hiện đại, Đại học
Massachusetts, Boston.
—
Nếu ngày mai bạn không
nhìn thấy mặt trời, mọi mơ ước sẽ chìm trong bóng tối, mọi cánh cửa cuộc đời
đều khép lại, bạn sẽ làm gì? Chắc hẳn bạn sẽ đau buồn, khóc lóc, dằn vặt. Vui
sao được khi “giàu hai con mắt, khó
hai bàn tay” mà bạn lại không còn đôi mắt sáng. Chắc bạn sẽ trách trời
cao, đất dày sao quá bất công. Bạn có quyền làm thế: cứ khóc cho thỏa thích, cứ
đau buồn cho đến lúc không thể buồn hơn được nữa. Nhưng xin đừng mất đi niềm
vui sống và niềm hy vọng. Biết đâu câu chuyện của tôi có thể làm cho bạn không
bao giờ mất niềm tin vào những điều kỳ diệu trên đời cho dù bạn ở trong bất kỳ
một hoàn cảnh khó khăn nào.
Tôi sinh ra với căn bệnh
“thoái hóa sắc tố võng mạc”, căn bệnh rất hiếm, chỉ có 20 triệu người trên thế
giới mắc phải và các chuyên gia nhãn khoa hàng đầu hiện còn bó tay. Căn bệnh
này làm cho thị trường càng ngày càng hẹp. Theo thời gian, con mắt chỉ có độ mở
10 độ, rồi 5 độ, và khi nào nó về zero, thì bạn sẽ không nhìn thấy gì nữa. Thị
lực cũng suy giảm rõ rệt và điều quan trọng nhất là nhìn thấy bệnh tiến triển
mà đành bất lực để nó từ từ cướp đi khả năng nhận ánh sáng của đôi mắt. Không
có thuốc đặc trị! Không có phẫu thuật nào có thể khắc phục được. Hãy ngồi chờ
và đón nhận một cuộc sống trong bóng đêm hay sao? KHÔNG, tôi không chịu đầu
hàng số phận.
Hành trang của tôi: Chiếc
gậy ba màu
Khi còn nhỏ, tôi thường
bị mẹ mắng là đoảng. Hễ mâm cơm để giữa nhà, thì 99% tôi đá đổ, cả nhà sẽ nhịn
ăn và nhất là khi có khách, bố mẹ chỉ có mà độn thổ vì có đứa con vô ý như tôi.
Tôi càng cố gắng thì càng bị mắng mà không hiểu sao mình vô ý thế. Cứ đi từ chỗ
tối ra chỗ sáng là tôi chói mắt và không ít lần ngã bổ chửng khi bước từ rạp
chiếu phim ra, khiến tôi vô cùng xấu hổ. Càng lớn, căn bệnh càng phát triển,
cho đến một ngày tôi cứ đâm vào những cành cây chắn ngang lối đi. Tôi đang dần
dần bị mù mà không hề biết. Bác sỹ khuyên tôi hạn chế đọc sách và dùng máy
tính. Trời ơi, tôi làm sao mà ngừng đọc được. Cuộc sống của tôi chỉ có ý nghĩa
khi làm việc, mà công việc đòi hỏi tìm tòi, đọc sách, nghiên cứu và viết. Ngừng
đọc nghĩa là chết. Bỏ ngoài tai lời khuyên bác sỹ, tôi vẫn lao vào học thi và
giành được Học bổng Fulbright.
Cuộc đời mở sang một
chương mới khi tôi sang Boston học chương trình thạc sỹ về Hoa Kỳ học. Nước Mỹ
đã làm tôi vững tin rằng mình “tàn mà không phế”. Nơi đây, người khuyết tật
được luật pháp bảo vệ. Thái độ xã hội luôn cảm thông, khuyến khích họ phấn đấu
để vẫn sống hạnh phúc như bất cứ một người lành lặn nào. Khi đi học, họ được
tạo mọi điều kiện để có thể đạt kết quả mong muốn. Mọi đề cương môn học đều nêu
rõ sinh viên nào cần trợ giúp đặc biệt thì cho giáo sư biết, họ sẽ thiết kế
chương trình, hoặc có những biện pháp thích hợp. Tôi rất may mắn được giáo sư
và bạn bè cảm thông, giúp đỡ. Họ phát riêng cho tôi những tập tài liệu chữ to,
chỉ chỗ mua sách audio và các phần mềm trợ giúp và tìm những bác sỹ nhãn khoa
giỏi nhất thế giới. Điều quan trọng hơn cả, họ động viên, khuyến khích tôi phấn
đấu để thành công. Giáo sư Jean Humez, thày hướng dẫn của tôi, luôn nói: “Em có
thể mất khả năng nhìn thấy ánh sáng, nhưng nhất định em phải trở thành một giáo
sư giỏi, một nhà khoa học có ích, chỉ cần em cố gắng và hãy học chữ nổi.”
Tôi nghe lời bà. Sau khi
hoàn thành luận văn thạc sỹ, tôi tiếp tục theo học chương trình tiến sỹ. Một
thử thách lớn. Chỉ đọc độ 30 phút là mắt tôi mệt rã rời, đau nhức đến tận óc,
trong mắt như có kim châm. Tôi chỉ nhìn thấy lờ mờ trong khoảng cách 2 mét. Xa
hơn nữa, tất cả lòa nhòa, chỉ còn những vệt tối và sáng kể cả khi đeo kính. Khi
đọc sách, tôi dùng kính lúp, khi viết bài, tôi dùng phông chữ 20-25. Tôi dán
mắt vào màn hình với khoảng cách 20-25 cm. Mỗi khi làm bài xong, toàn thân tôi
tê dại vì ngồi trong một tư thế rất bất tiện. Cứ như thế, tôi đã dần dần hoàn
thành các khóa học của chương trình tiến sỹ và đang viết luận án. Một cuộc chạy
đua với số phận, không chỉ để chiếm lĩnh những đỉnh cao tri thức. Với tôi, đây
là một cuộc chạy đua với Bóng Tối. Tôi muốn mình phải sẵn sàng vào cuộc nếu
ngày mai hắn đến.
Cho đến giờ, tôi không
còn nghĩ là mình kém may mắn khi mắc phải căn bệnh này. Câu nói tôi yêu thích
nhất của Karl Marx là: “Không cái gì
thuộc về đời sống được xa lạ với tôi.” Vâng, trải nghiệm của người mù
không hề xa lạ với tôi. Không thể nói đó là trải nghiệm mà tôi mong muốn, nhưng
nhờ nó, tôi biết yêu thương và cảm thông với con người hơn. Tôi biết trân trọng
những điều bình dị mà hiển nhiên ta có: ánh
nắng mặt trời. Ai sinh ra chẳng có đôi mắt và chúng ta thản nhiên đón
nhận ánh sáng mà không thấy đó là hạnh phúc lớn lao, là niềm mơ ước không bao
giờ có được của những người khiếm thị. Chỉ khi nào trải nghiệm được cảm giác
của người mù, chúng ta mới thấy quý từng giây từng phút được nhìn thấy ánh
sáng.
Vì khiếm thị, tôi tìm đến
cộng đồng của những người cùng cảnh ngộ. Tôi đến với các em trường Nguyễn Đình
Chiểu, Hà Nội. Tôi tham gia “Hội Văn hóa Việt” ở Boston, tổ chức các hoạt động
từ thiện gây quỹ để giúp Ban nhạc Hy vọng, ban nhạc của các em khiếm thị tại
trường Nguyễn Đình Chiểu, do vợ chồng nghệ sỹ đàn piano Tôn Thất Triêm và ca sỹ
Xuân Thanh đỡ đầu. Tôi có duyên may được gặp các em, những người sinh ra chưa
từng được nhìn thấy ánh sáng. Tôi được thưởng thức một chương trình âm nhạc rất
chuyên nghiệp do các em biểu diễn. Các em chăm chú nghe tôi kể chuyện nước Mỹ.
Nhanh thoăn thoắt, các em dắt tôi đi thăm kí túc xá. Các em sử dụng máy tính
thành thạo để học và cả viết báo. Nhiều em nói tiếng Anh rất khá. Nói chuyện về
màu sắc, tôi hỏi các em thích màu gì. Một em nói: “Màu hồng.” Tôi nhận thấy em
mặc áo hồng, trong tay là một chiếc ví cũng màu hồng. Còn một em khác mặc áo
xanh và nói: “Em thích màu xanh cô ạ.” Các em đoán tôi mặc áo màu tối. Lạ chưa,
tôi mặc áo màu đen. Tôi hỏi kinh nghiệm học chữ nổi, các em cười rất hồn nhiên:
“Cô ơi, chữ nổi học dễ lắm, chứ không khó như học tiến sỹ đâu.”
Tác giả nói chuyện
với Thu Hương (cô bé áo hồng) và Hương Sen (cô bé áo xanh) tại trường Nguyễn
Đình Chiểu
Nụ cười hồn nhiên trên
gương mặt trẻ thơ với những con mắt mờ đục cứ đọng mãi trong tôi khiến tôi thấy
mình có lỗi nếu cứ than thân trách phận rằng mình thiếu may mắn. Chính các em
đã dắt tôi bước qua nỗi sợ và làm tôi yêu cuộc sống hơn. Tôi mang nợ với các
em, những người cõng nhau, dìu nhau đến lớp với chiếc gậy tre trong khi tôi có
đủ mọi thứ, từ chiếc gậy ba màu, phản quang, có thể gập lại, bỏ túi, và hễ ai
nhìn thấy, họ sẽ giúp tôi, đến những trợ giúp ở trường đại học các em chưa khi
nào dám mơ tới. Tôi lao vào tìm kiếm mọi khả năng giúp các em. Tôi vận động bạn
bè ở Mỹ đóng góp tiền bạc, công sức, mua gậy và các phần mềm chuyên dụng cho
người khiếm thị, rồi tìm cách chuyển về Việt Nam. Nhiều người Mỹ viết thư trao
đổi với các em và giúp các em học tiếng Anh qua mạng. Các em dần dần thấy tương
lai không còn bó hẹp với nghề vót tăm hoặc mat-xa, như xã hội thường nghĩ các
em chỉ làm được thế. Có em vào đại học, có em dạy tiếng Anh cho chính các bạn
khiếm thị. Các em gọi tôi là “cô” vì tôi là cô giáo, nhưng chính các em mới là
thày của tôi. Chính các em đã mang điều kì diệu là niềm vui sống đến với tôi,
và chính nước Mỹ: thày cô, bạn bè, bác sỹ, đã làm cho niềm vui sống ấy lan tỏa
đến bao người, không chỉ những người khiếm thị.
Tác giả gặp gỡ và hát
cùng Ban nhạc Hy vọng: Nghệ sỹ ưu tú Tôn Thất Triêm và các em trong đội đồng ca
Câu nói của V. I. Lenin:
“Học, học nữa, học mãi” cùng
với triết lý học suốt đời trở
thành thần dược cho tôi. Một
khi còn học được và được học, tôi thấy mình đang sống và hạnh phúc. Tôi gặp bác
sỹ Eliot Berson, chuyên gia hàng đầu thế giới về căn bệnh này khi tôi vừa viết
xong luận văn thạc sỹ. Không khỏi ngạc nhiên khi biết tôi có thể làm được điều
đó khi căn bệnh đang tiến triển, ông mỉm cười: “Hãy làm những gì bạn đang làm,
chẳng gì có thể phá hỏng thêm đôi mắt của bạn”. Đó là liều thuốc an thần lớn
nhất mà tôi từng có trong đời.
Tôi sẽ làm gì khi ngày
mai không còn nhìn thấy ánh nắng mặt trời? Tôi sẽ nghe theo lời khuyên của bác
sỹ Berson là tiếp tục công việc tôi đang làm: học, dạy học, viết báo, viết văn
và giúp đỡ các em khiếm thị thiếu may mắn hơn tôi. Tôi luôn ý thức được một
ngày nào đó Bóng Tối sẽ đến gần và tôi sẽ nói với hắn: “Ta đã chờ mi, ta chẳng
ưa gì mi, nhưng số phận bắt ta phải đi cùng mi, mi có thể cướp đi ánh sáng của
ta, nhưng mi đừng hòng làm ta gục ngã, ta luôn sẵn sàng đón nhận bất cứ điều gì
mi thách thức ta, và mi đừng hy vọng cướp đi niềm vui sống trong ta”. Ánh sáng
sẽ đến từ tình yêu thương của gia đình và bè bạn, từ sự cảm thông chia sẻ của
cộng đồng. Ánh sáng sẽ đến từ tri thức, kinh nghiệm, từ những gì tôi đã cóp
nhặt, chắt chiu, nâng niu trong nhiều năm qua và sẽ còn tiếp tục gom góp để
thấy mình luôn có ích cho đời. Hành trình Hà Nội-Boston của tôi là hành trình
đi tìm ánh sáng, gìn giữ và chia sẻ ánh sáng với những ai cần đến nó.
Medford, tháng 7/2013
Người
phụ nữ trong bài báo trên là con của quê hương quan họ Bắc Ninh, nơi có những
bài hát quan họ đã đi sâu vào trong tâm trí mỗi người Việt Nam chúng ta. Mời
các bạn nghe một số bài hát yêu thích của quê hương Quan họ.