Thứ Hai, 5 tháng 8, 2013

ГУД БАЙ, МОЙ МАЛЬЧИК- TẠM BIỆT NHÉ, CHÀNG TRAI CỦA EM “АНЖЕЛИКА ВАРУМ”


Một bài hát với phong cách trình diễn rất trẻ trung của Anjelika Varum, nhí nhảnh giống như cô gái mới lớn đến tuổi yêu đương.
ГУД БАЙ, МОЙ МАЛЬЧИК- TẠM BIỆT NHÉ, CHÀNG TRAI CỦA EM “АНЖЕЛИКА ВАРУМ”

Печален был ночной звонок
И новый день тебе не нужен.
Прощальный наш с тобою ужин
Он расставания предлог.
Любовь куда-то унесет
Невольных странствий тихий ветер
И мне на юг, тебе на север
Ведь у судьбы свой личный счет.
Tiếng chuông trong đêm thật buồn bã
Và ngày mới anh đâu cần đến nữa.
Bữa tối chia tay của em với anh
Chính là cái cớ của cuộc chia ly.
Một cơn gió lặng thầm lang thang
Mang tình yêu đi về đâu đó
Em về phương Nam, còn anh phương Bắc
Vì mỗi người đều có số phận riêng rồi.
Припев:
Good bye, мой мальчик
Good bye, мой миленький
Твоя девчонка уезжает навсегда
И на тропинке, и на тропиночке
Не повстречаемся мы больше никогда.

Tạm biệt nhé chàng trai của em ơi
Tạm biệt nhé người yêu của em ơi
Cô gái của anh ra đi mãi mãi rồi
Và ở lối mòn nơi con đường quen thuộc
Chúng mình chả bao giờ còn được gặp nhau.
С тобой не будет больше встреч
Лишь поздравленья с Новым годом
Придет посланником почтовым
И станешь ты его беречь.
И стану я его беречь
Вдали, в усталых ритмах сердца
Тебя запомню я навечно
И ночь в огнях сгоревших свеч.
Sẽ chẳng còn cuộc hẹn hò nào cùng với anh
Chỉ còn lời chúc mừng Năm Mới
Sẽ gửi đến qua đường bưu điện
Và anh hãy giữ gìn lấy nhé.
Và em cũng sẽ gìn giữ điều đó
Từ nơi xa trong nhịp đập mỏi mệt của trái tim
Em sẽ nhớ tới anh mãi mãi
Và đêm trong ánh lửa những ngọn nến đã lụi tàn.

TP. Hồ Chí Minh 04.08.2013
Minh Nguyệt dịch.

ЗАКОНЧИТЬ НЕЗАКОНЧЕННЫЙ РОМАН – KẾT THÚC CHUYỆN TÌNH DANG DỞ “ИРИНА АЛЛЕГРОВА И ИГОРЬ КРУТОЙ”


Trước đây các bạn đã có lần nghe bài hát “НЕЗАКОНЧЕННЫЙ РОМАН” mà tôi dịch là “CHUYỆN TÌNH DANG DỞ” do ca sĩ Iryna Allegrova trình bày cùng với nhạc sĩ đa tình Igor Krutôi. Mời các bạn nghe tiếp bài hát “hậu” của bài hát đó với cái tên rất vui “ЗАКОНЧИТЬ НЕЗАКОНЧЕННЫЙ РОМАН” mà tôi dịch là “KẾT THÚC CHUYỆN TÌNH DANG DỞ” cũng do hai ca sĩ Iryna Allegrova Igor Krutôi trình bày vẫn trên nền nhạc của bài hát cũ. Tất cả những công việc còn dang dở trong gia đình, cho đến cả tình yêu nữa, hãy cố gắng thu xếp cho xong để đón mừng Giáng sinh các bạn nhé. Đón năm mới ai cũng muốn được quây quần bên tổ ấm của mình, mà tổ ấm đúng nghĩa phải có vợ chồng cùng con cái thì mới cảm thấy hạnh phúc có đúng như thế không các bạn..


ЗАКОНЧИТЬ НЕЗАКОНЧЕННЫЙ РОМАН – KẾT THÚC CHUYỆN TÌNH DANG DỞ “ИРИНА АЛЛЕГРОВА И ИГОРЬ КРУТОЙ”
Эфир от 31.12. 1998


Давно уже горят огни
на новогодних елках,
И много добрых слов успели вам уже сказать
Родные и друзья,
свекрови и зятья,
И нам осталось лишь да пожелать:
Những ngọn đèn đã cháy sáng từ lâu
Trên cây thông đón mừng năm mới,
Bao lời nói tốt đẹp đã kịp nói với các bạn rồi
Những người thân và bạn bè,
Những mẹ chồng và con dể,
Và chúng ta chỉ còn có thể mong muốn một điều:
Закончить незаконченный роман
И выпить недопринятых сто грамм,
Дорезать недорезанный пирог,
В Новый год на столе.
Довыбить недовыбитый ковер,
Докрасить недокрашенный забор,
Дочистить недочищенный сапог
В парке на скамье.
Kết thúc chuyện tình còn dang dở
Và uống hết 100 gram còn uống dở,
Cắt nốt chiếc bánh còn bỏ dở,
Ở trên bàn trong dịp Giáng sinh.
Phủi sạch tấm thảm đang đập dở,
Sơn nốt hàng rào sơn dang dở,
Đánh xi nốt đôi dày còn bỏ dở.
Ở ngay trên ghế đá công viên.
2. Год пролетел в делах,
как триста шестьдесят пять суток,
И в новогодний вечер
нет проблем и нет забот,
Крутиться как юла,
доделать все дела
Еще успеем в наступивший год.
Một năm bay nhanh trong công việc,
Hết ba trăm sáu mươi lăm ngày đêm,
Và trong buổi tối đón mừng năm mới
Không còn có trở ngại hay phải lo âu,
Cứ xoay vòng quanh như chiếc cù,
Làm cho xong tất cả mọi việc
Chúng mình còn kịp đón mừng năm mới.
Дотянем недотянутый куплет,
Дожарим недожаренный лангет,
Отвесим неотвешенный поклон
И друзьям и семье.
Догоним Запад, мы надеемся,
А не догоним, хоть согреемся,
И впишем длинный ряд своих имен
В парке на скамье.
Mình cố kéo hết đoạn còn hát dỡ,
Mình rán cho xong miếng kot lét rán dở,
Mình ráng cúi chào vì còn cúi dở
Với bạn bè và với gia đình.
Đuổi về hướng Tây, chúng mình hy vọng,
Nếu không đuổi kịp, thì mình được sưởi ấm lên,
Và chúng mình ghi tên vào trong danh sách dài
Ở ngay trên ghế đá công viên.
Нам да успеть бы хоть на пять минут
Закрыть недораскрытый парашют,
Тогда быстрей закончится романс
О любви на земле.
Крутого песни изумительны,
Но длятся долго и мучительно,
Никто так круто не крутил роман
В парке на скамье.
Chúng ta có thể kịp làm xong trong vòng 5 phút
Gấp lại chiếc dù còn chưa mở hết,
Khi ấy kết thúc nhanh hơn khúc tình ca
Về tình yêu trên thế gian.
Những bài ca nghiệt ngã thật tuyệt vời,
Nhưng diễn ra càng lâu càng thêm đớn đau,
Không có ai lại mạo hiểm với câu chuyện tình
Ở ngay trên ghế đá công viên.

TP. Hồ Chí Minh 05.08.2013
Minh Nguyệt dịch.


Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

ПТИЦА ВОЛЬНАЯ – CHÚ CHIM TỰ DO “ТАИСИЯ ПОВАЛИЙ”


Bài hát “ПТИЦА ВОЛЬНАЯ – CHÚ CHIM TỰ DO” do nghệ sĩ nhân dân Ukraina- Taysia Povaly trình bày thấy hay hay, mang về giới thiệu cùng các bạn. Đôi khi ngồi trong nhà thấy chim bay vào, ở việt Nam ta coi đó chuyện chim sa, cá nhảy thường là xui xẻo. Nhưng khi chàng đã bay khắp bốn phương trời để tìm tình yêu, khi đã mỏi gối chân chồn, cánh gãy mà chưa tìm thấy được một nửa của mình, chàng gặp một thiếu nữ cũng đang tuổi kén chọn tình yêu. Biết đâu đó lại là chuyện may mắn mang đến hạnh phúc cho cả hai. Chúc những chú chim tự do được may mắn nhé, tình yêu bất chợt đôi khi mang lại hạnh phúc đấy phải không các bạn.


ПТИЦА ВОЛЬНАЯ – CHÚ CHIM TỰ DO “ТАИСИЯ ПОВАЛИЙ”

Незваный мой, нежданный мой
В окно ты залетел ко мне
Обжег ты где-то свои крылья
И не смог лететь
Vị khách không mời, vị khách bất chợt của tôi
Bạn bay vào cửa sổ đến với tôi
Bạn đốt cháy đôi cánh mình ở nơi nào đó
Và chẳng thể nào bay được nữa
В руках моих согрелся ты
И попросил попить воды
Потом уснул в моих ладонях
До весны
Bạn được sưởi ấm trong bàn tay tôi
Và hỏi xin uống một chút nước
Sau đó thiếp đi trong lòng bàn tay tôi
Cho tới mùa xuân
Птица вольная летала в небесах
На любовь она смотрела свысока
А когда любовь ей крылья обожгла
Ко мне в дом она вернулась навсегда
Chú chim tự do bay trong bầu trời
Đang ngắm tình yêu từ ở trên cao
Còn khi tình yêu đã đốt mất cánh rồi
Chim quay trở về nhà tôi mãi mãi
Любимый мой, желанный мой
Останься я прошу со мной
но ты опять спешишь туда,
Где дышат вольно облака
Người yêu của em, người mong ước ơi
Em cầu xin anh ở lại cùng em
Nhưng anh lại vội vàng về phía đó
Nơi có những đám mây hít thở tự do
Летал, любил и уходил
Но снова крылья подпалил
И в дом влетел, где я жила
Навсегда
Lượn bay, yêu đương và ra đi
Nhưng lại đem đốt cháy đôi cánh
Và lại bay vào nhà, nơi tôi đang sống
Ở lại suốt đời
Птица вольная летала в небесах
На любовь она смотрела свысока
А когда любовь ей крылья обожгла
Ко мне в дом она вернулась навсегда (x 3р)
Chú chim tự do bay trong bầu trời
Đang ngắm tình yêu từ ở trên cao
Còn khi tình yêu đã đốt mất cánh rồi
Chim quay trở về nhà tôi mãi mãi

TP. Hồ Chí Minh 03.08.2013
Minh Nguyệt dịch.


Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2013

ВАЛЬС ВЛЮБЛЁННЫХ – VALS CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐANG YÊU “ВАЛЕНТИНА ТОЛКУНОВА, ЛЕВ ЛЕЩЕНКО”



Các bạn thân mến, trong tiếng Nga từ “влюбленый” có nghĩa là yêu đương, phải lòng, có tình cảm, ở đây tôi dịch là đang yêu. Đúng như tâm trạng của những người khi mới yêu, đều bồn chồn và hay nghĩ tới người mình yêu. Đôi khi vì nhớ tới người yêu làm cho con người ta si mê quên hết những việc khác cần phải làm, cho nên người ta bảo rằng những người đang yêu và những người say rượu chẳng có thể giấu được ai. Bài hát này được ca sĩ Valentina Tolkunova trình bày lần đầu tiên vào năm 1974 và đến năm 1981 khi trình bày cùng ca sĩ Lev Leshenko lời bài hát có sửa một vài câu.


ВАЛЬС ВЛЮБЛЁННЫХ – VALS CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐANG YÊU “ВАЛЕНТИНА ТОЛКУНОВА, ЛЕВ ЛЕЩЕНКО”
Музыка Л. Лядовой- слова П. Градова- Из фильма-концерта "Мелодии Людмилы Лядовой". 1981 г.

Забрался в окно рассвет, и мерцая лампочки свет.
Сегодня, как вчера, мне не до сна.
И снова он виноват, его задумчивый взгляд...
А может быть, может быть я влюблена!
Bình minh trèo vào ô cửa ổ, và ánh sáng làm lấp lánh các bóng đèn.
Hôm nay cũng giống ngày hôm qua, em chẳng thể nào ngủ được.
Và anh ấy lại là người có lỗi, chính cái nhìn trầm ngâm của anh…
Mà có thể, có thể em đã phải lòng anh mất rồi!

Её напротив окно, всю ночь светилось оно,
И снова падал снег на мой балкон.
Её я вижу во окне, и вдруг подумалось мне:
Я может быть, может быть тоже влюблён!
Cửa sổ nhà nàng ở đối diện, cả đêm qua ánh sáng chói lòa,
Và tuyết cũng lại vừa rơi xuống dưới ban công nhà anh.
Anh nhìn thấy em bên cửa sổ, và đột nhiên anh thiết nghĩ rằng:
Mà có thể, có thể anh đã phải lòng rồi!

Звонить друг другу не лень, и он звонит целый день,
Хотя мы друг другу хорошо видны.
И ни пойму почему, вес день я звоню ему...
А может быть, может быть мы влюблены!
Không lười biếng gọi điện cho nhau, và anh cầm máy gọi cả ngày,
Cho dù chúng ta nhìn thấy nhau rất rõ.
Và em cũng chẳng hiểu vì sao, suốt cả ngày tôi đã gọi cho anh…
Mà có thể, có thể chúng mình đã yêu nhau mất rồi!

Мы тихо песню поём, когда проходим вдвоём
По шумным светлым улицам Москвы.
И столько ласковых глаз, с улыбкой смотрят на нас...
А может быть, может быть всe влюблены.
Chúng mình khẽ hát một bài ca, khi cả hai cùng bước chung đôi
Trên đường phố Matxcơva náo nhiệt tươi vui.
Và biết bao đôi mắt dịu dàng, mỉm cười ngắm nhìn chúng ta…
Mà có thể, có thể tất cả mọi người cũng đang yêu!

А может быть, может быть все влюблены...
А может быть, может быть все влюблены!
Mà có thể, có thể tất cả mọi người cũng đang yêu!
Mà có thể, có thể tất cả mọi người cũng đang yêu!

TP. Hồ Chí Minh 03.08.2013
Minh Nguyệt dịch.





Thứ Năm, 1 tháng 8, 2013

ЭМИГРАНТСКИЙ ВАЛЬС! VALS CỦA NGƯỜI XA XỨ “КОНСТАНТИН


Các bạn thân mến, từ hơn 30 năm về trước tôi đã được nghe nhiều bài hát Nga và Ukraina của những người đang sống ở Mỹ và Canada trình bày. Nếu trong tiếng Nga có từ “Эмигранты”- được dịch là “người di cư”, hay “kiều dân”. Những người vì lý do chính trị bị gọi là “lưu vong”. Cái thời sinh viên của chúng tôi do chính phủ tài trợ cho đi du học, nếu ai học xong không về cũng bị gọi là “lưu vong”.
Từ khi Liên Xô và hệ thống các nước XHCN tan giã, có nhiều người từ Việt Nam di cư đi khắp nơi trên thế giới làm ăn sinh sống tự do, miễn có tiền để đi và hy vọng lo được cuộc sống của mình và gia đình sung sướng hơn, thì được gọi là “Việt kiều” trìu mến.
Gọi là Việt kiều hay dân di cư nghe nó cũng vậy thôi, tôi dùng từ “người xa xứ” hy vọng phù hợp với tâm trạng của tất cả những ai ra nước ngoài sinh sống, lòng buồn thương mỗi khi nhớ tới quê nhà.
Bài hát do ca sĩ Константин Дерр trình bày, xin giới thiệu cùng các bạn.


ЭМИГРАНТСКИЙ ВАЛЬС! VALS CỦA NGƯỜI XA XỨ “КОНСТАНТИН ДЕРР”

Почему, почему сердце полнится грустью?
Почему я смотрю с тайной завистью вслед облакам?
Я шепчу: Проплывите над милою Русью,
Передайте привет мой моим землякам.
Tại sao con tim chứa chất đầy nỗi buồn thương?
Vì sao tôi nhìn theo những đám mây với nỗi ghen tỵ lặng thầm?
Tôi khẽ nhủ: Hãy bay qua nước Nga yêu dấu,
Chuyển lời chào của tôi tới những người đồng hương.

Припев:
А за окнами ветер последние листья срывает,
Им уже, как и нам, не вернуться назад
Осень вальс эмишрантов для нас в тишине исполняет,
Эмигранты друзья мои, вальс этот только для вас!
Gió ở ngoài hiên đang bứt những chiếc lá cuối cùng,
Những chiếc lá ấy như chúng ta, chẳng còn quay lại nữa
Mùa thu vals của những người xa xứ đang khẽ hát cho chúng ta,
Những người bạn xa xứ của tôi ơi, vals này chỉ dành cho các bạn thôi!

2. Я уехал сюда, но мосты за собой не сжигаю.
Моё сердце и душу предать я никак не могу.
Почему в моей жизни случилось такое, не знаю.
В этом я обвиняю лишь только злодейку- судьбу.
Tôi đến nơi này, nhưng không đốt những cây cầu ở phía sau.
Tôi không thể nào phản bội trái tim và cả tâm hồn.
Vì sao trong đời mình xảy ra như thế, tôi đâu biết.
Trong chuyện này tôi chỉ biết đổ lỗi cho số phận tàn nhẫn mà thôi.

3. И берёз подвенечные белые платья мне снятся.
Снятся в пламени алом рябины за нашим окном.
От себя не уйти и не стоит, наверно, стараться.
Потому что Россию мы Родиной с детства зовём.
Tôi lại mơ thấy chiếc áo cưới trắng khoác trên mình bạch dương.
Mơ thấy thanh lương trà màu lửa đỏ rực ở ngoài hiên.
Chẳng thể nào đứng vững hay rời xa, có lẽ đang gắng sức.
Bởi vì nước Nga từ thuở ấu thơ chúng tôi gọi là Quê hương.

TP. Hồ Chí Minh 01.08.2013
Minh Nguyệt dịch.